QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VÀ TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là quyền mà theo đó, đương sự sẽ tự lựa chọn và quyết định các hành vi được pháp luật quy định nhằm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đây là một vấn đề cơ bản của tố tụng dân sự, chi phối quá trình tố tụng dân sự nên quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật Tố tụng dân sự. Bài viết dưới đây sẽ phân tích nội dung cơ bản của nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Nội dung của nguyên tắc quyền quyết định và tự đinh đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo đó:
- Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
- Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
Từ quy định trên có thể thấy, quyền quyết định và tự đinh đoạt của đương sự được thể hiện ở các phương diện chủ yếu sau: đưa ra yêu cầu; khởi kiện; chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.
1. Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
- Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Nội dung quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Ngoài ra, tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Như vậy, quyền khởi kiện là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. Từ đó, có thể thấy có hai chủ thể có quyền khởi kiện đó là: chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp trực tiếp bị xâm phạm và chủ thể tuy không có quyền, lợi ích hợp pháp trực tiếp bị xâm phạm nhưng họ khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước được pháp luật quy định.
- Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Nếu như người khởi kiện có quyền quyết định và tự định đoạt quyền khởi kiện, quyền yêu cầu thì người bị kiện có quyền quyết định và tự định đoạt phản tố đối với nội dung bị khởi kiện. Tuy nhiên, quyền quyết định và tự định đoạt phản tố của người bị kiện đối với nội dung bị khởi kiện chỉ được thực hiện trong khuôn khổ theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền, nghĩa vụ của bị đơn thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn, theo đó:
+ Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
+ Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau:
(i) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
(ii) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
(iii) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
+ Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Như vậy, có thể thấy quyền quyết định và tự định đoạt phản tố của người bị kiện chỉ được thực hiện khi có những mối ràng buộc nhất định với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện. Ngoài ra, quyền quyết định và tự định đoạt yêu cầu phản tố chỉ được thực hiện tại những thời điểm, những giai đoạn tố tụng nhất định.
- Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khái niệm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự được quy định tại Khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo đó, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có quyền tự định đoạt theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
+ Thứ nhất, việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
+ Thứ hai, yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án dân sự đang được giải quyết;
+ Thứ ba, yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
2. Quyền quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện
Tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định:
“1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
2. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Như vậy, đương sự có quyền quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, tuỳ vào từng giai đoạn tố tụng mà việc quyết định và tự định đoạt này có thể được toà án chấp nhận hay không. Trước khi toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì việc quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu là quyền tuyệt đối của đương sự. Nhưng tại phiên toà sơ thẩm, việc quyết định và tự định đoạt trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự bị hạn chế.
3. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong việc thoả thuận giải quyết vụ việc.
Trong tố tụng dân sự, hoà giải là thủ tục có ý nghĩa rất lớn nhằm giúp cho đương sự thoả thuận với nhau để giải quyết các vấn đề có liên quan đến vụ việc. Cơ sở của hoà giải là xuất phát từ ý chí chủ quan, quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Do vậy, chỉ có đương sự mới có quyền thương lượng, thoả thuận hoà giải để giải quyết các vấn đề có liên quan đến vụ việc, trừ trường hợp đương sự uỷ quyền cho người khác. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong việc thoả thuận giải quyết vụ việc được thực hiện ở bất cứ giai đoạn nào.
Tại phiên toà sơ thẩm, khoản 1 Điều 246 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng có quy định “Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không; trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án”.
Còn tại phiên toà phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (quy định tại khoản 1 Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
4. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đương sự có quyền nhờ luật sư hoặc người khác mà tòa án chấp nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ngoài ra, đương sự cũng có quyền tự định đoạt trong việc kháng cáo bản án, quyết định của Toà án. Theo đó:
- Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
- Đương sự, người đại diện của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng có quyền khiếu nại bản án, quyết định, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định, hành vi tố tụng đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trên đây là nội dung tư vấn về quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự.
-------------------------------------------------
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ:
𝐂Ô𝐍𝐆 𝐓𝐘 𝐋𝐔Ậ𝐓 𝐓𝐍𝐇𝐇 𝐒𝐉𝐊𝐋𝐀𝐖
📍 Địa chỉ: Số 3, ngõ 115 Nguyễn Khang, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội
🌍 Website: sjklaw.vn
📩 Email: sjk.law@hotmail.com
☎ Hotline: 0962420486