XỬ LÝ TRƯỜNG HỢP NGƯỜI BỊ TÒA ÁN TUYÊN BỐ CHẾT TRỞ VỀ
Câu hỏi:
Tôi và chồng tôi kết hôn 05 năm có 02 người con chung. Chồng tôi làm nghề đánh bắt cá ngoài biển, trong một lần ra khơi đánh bắt, do gặp cơn bão to nên tàu lật, gia đình không tìm kiếm được và cũng đã liên hệ nhờ đội cứu hộ tìm kiếm nhưng vẫn không có tin tức gì về chồng tôi. Hiện nay đã được 04 năm gia đình tôi và họ hàng hai bên đều nghĩ chồng tôi đã không còn, và tôi được sự đồng ý của hai con và họ hàng hai bên cũng đang quen với anh T, chúng tôi có tình cảm và chúng tôi cũng có dự định chuẩn bị kết hôn. Nên tôi đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng tôi đã chết và yêu cầu Tòa án ly hôn, đã có quyết định có hiệu lực của Tòa án. Sau đó tôi và anh T đăng ký kết hôn và tổ chức hôn lễ. Khoảng 2 tháng sau khi kết hôn thì chồng tôi bỗng dưng trở về rất tức giận nên đã yêu cầu Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng tôi đã chết và yêu cầu xác lập lại quan hệ vợ chồng? Tôi muốn hỏi Luật sư trong trường hợp này, Tòa án có đồng ý và chấp nhận đối với các yêu cầu của chồng tôi hay không? Và sẽ được giải quyết như thế nào?
Yêu cầu pháp lý:
Biện pháp xử lý và giải quyết trong trường hợp một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết trở về yêu cầu Tòa hủy bỏ quyết định tuyên bố đã chết và yêu cầu xác lập lại quan hệ vợ chồng.
Căn cứ pháp lý:
Bộ luật dân sự năm 2015
Luật HN&GĐ năm 2014
Luật sư tư vấn:
Chào bạn, chúng tôi đã nhận được yêu cầu tư vấn của bạn, đối với vấn đề của bạn được Luật sư giải đáp như sau:
Đầu tiên, đối với điều kiện để Tòa án có thể tuyên bố một người đã chết được quy định cụ thể tại Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS) đó là:
“1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
2. Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
3. Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch”.
Trong trường hợp của bạn, chồng bạn đi đánh cá gặp bão to và tàu bị lật không có thông tin kể từ đó mặc dù gia đình đã tìm kiếm và liên hệ cả đội cứu hộ tìm kiếm nhưng vẫn không có bất cứ một thông tin nào. Sau 04 năm, bạn yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng bạn đã chết và yêu cầu ly hôn được Tòa án đã chấp nhận giải quyết là hoàn toàn phù hợp theo quy định của pháp luật.
Bởi vì, căn cứ theo điều kiện quy định tại điểm c khoản 1 Điều 71 BLDS năm 2015 quy định cụ thể là trong trường hợp bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác thì người có quyền lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố là người đó là đã chết .
Trong trường hợp của chồng bạn, chính là gặp tai nạn thiên tai, bão to và bị lật tàu cho dù đã tìm mọi biện pháp vẫn không liên hệ và có thông tin về chồng bạn, khoảng thời gian bạn yêu cầu Tòa án giải quyết là 04 năm là hoàn toàn có cơ sở, làm đúng theo quy định của pháp luật.
Bạn và anh T đăng ký kết hôn, tổ chức hôn lễ sau khi có quyết định của Tòa án tuyên bố chồng bạn đã chết có hiệu lực pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 65 Luật HN&GĐ năm 2014 thì trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Do đó, quan hệ hôn nhân của bạn và chồng bạn đã chấm dứt, khi bạn và anh T đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì quan hệ hôn nhân giữa bạn và anh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Hai tháng sau chồng bạn trở về yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết thì hoàn toàn được Tòa án chấp nhận và giải quyết. Cụ thể căn cứ theo khoản 1 Điều 73 BLDS năm 2015 thì trong trường hợp khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Đối với yêu cầu xác lập lại quan hệ vợ chồng với bạn thì không thể thực hiện được bởi vì căn cứ theo quy định của pháp luật cụ thể:
Đầu tiên căn cứ theo BLDS năm 2015 cụ thể tại khoản 2 Điều 73 quy định như sau:
“2. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
a) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
b) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật”.
Tại Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định như sau:
“ Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật”. (khoản 1 Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2014).
Từ những căn cứ trên có thể thấy, bạn và chồng bạn đã có quyết định ly hôn của Tòa án thì quyết định đó vẫn có hiệu lực pháp luật, bạn và anh T đã kết hôn thì quan hệ hôn nhân giữa bạn và anh T vẫn có hiệu lực pháp luật. Do vậy, yêu cầu của chồng bạn không thể được Tòa án chấp nhận.
Ngoài ra, đối với quan hệ tài sản của hai vợ chồng bạn sẽ được giải quyết như khi ly hôn, cụ thể căn cứ theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này”.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư đối với vấn đề của bạn
Mọi vướng mắc cần giải đáp hoặc để được sử dụng dịch vụ. Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
Luật sư CÔNG TY LUẬT TNHH SJKLAW
Hotline yêu cầu dịch vụ luật sư tư vấn: 0962420486
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: sjk.law@hotmail.com
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng ./.