ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH BLDS 2015
ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH BLDS 2015
Sinh-lão-bệnh-tử” là một loại quy luật tất yếu của đời người mà không ai có thể cưỡng cầu được. Do vậy, vì không thể báo trước được nên để bảo vệ những quyền cơ bản của con người, pháp luật cho phép họ có quyền định đoạt tài sản của mình theo ý chí của bản thân và Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra những chế định về việc thừa kế, trong đó có thừa kế theo di chúc.
-
Vậy di chúc được hiểu là gì?
Có nhiều khái niệm về vấn đề này, nhưng tựu chung lại có thể hiểu di chúc là sự thể hiện ý chí của một chủ thể (cá nhân) nào đó nhằm chuyển tài sản của mình cho một hoặc nhiều người khác sau khi chết
-
BLDS năm 2015 quy định về di chúc như thế nào?
Một số những ưu điểm như sau:
Như chúng ta biết, lập di chúc là một trong những hành vi góp phần thực hiện quyền tự định đoạt của cá nhân liên quan đến tài sản. Thế nhưng pháp luật dân sự đã tạo ra hành lang pháp lý khá cụ thể và rõ ràng trong việc tôn trọng, bảo đảm quyền tự định đoạt của cá nhân và loại bỏ khả năng xâm phạm, lạm dụng tài sản của chủ thể khác để thực hiện tư lợi cá nhân hoặc mang lợi bất chất cho chủ thể nhất định thông qua bản di chúc.
Xuất phát từ vị trí của di chúc trong chế định thừa kế và giá trị thực sự của nó đối với quyền, lợi ích của người thừa kế, người có liên quan, Nhà nước đặt ra quy phạm mang tính mệnh lệnh khi yêu cầu về tính trang trọng, tính chính thống đối với thể thức của bản di chúc. Điều này cũng tránh được nhiều tranh cãi, mâu thuẫn trong quá trình giải thích nội dung của di chúc.
Bên cạnh đó, các quy định liên quan tới di chúc có một số bất cập như sau:
Một là, theo quy định PL dân sự thì thể hiện ý chí của người lập di chúc nhằm chuyển tài sản của mình sang người khác sau khi chết. Thế nhưng tại thời điểm lập di chúc thì trong thực tế đã phát sinh một số trường hợp mà tài sản chưa thuộc quyền sở hữu của người lập di chúc hoặc là tài sản người lập di chúc sẽ có sau khi chết thì di chúc có được công nhận hay không?
Hai là, Theo quy định thì chúng ta thấy Pháp luật mới chỉ quy định mức tối thiểu mà những người đương nhiên được hưởng TK mà không quy định mức tối đa được hưởng là bao nhiêu. Do đó chính điều này có thể dẫn đến người đương nhiên được hưởng TK nhiều hơn người TK trong trường hợp chỉ có một suất TK duy nhất. Nếu điều luật quy định mức tối đa hoặc quy định không được nhiều hơn một suất TK thực tế được hưởng thì mới phù hợp.
-
Một số những kiến nghị hoàn thiện
Thứ nhất, nên sửa đổi khoản 1, 2 Điều 631 BLDS năm 2015 theo hướng làm rõ hơn phần nội dung của di chúc.
Quy định về Khoản 1 Điều 631 BLDS năm 2015 như sau: “Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau…”. Nếu như quy định như vậy thì sẽ góp phần tạo nên cách hiểu đây là điều khoản chỉ dẫn áp dụng nên là khi áp dụng nó có thể có hoặc không đưa vào nội dung của di chúc.
Tiếp đến đối với các khoản 1, 2 Điều 631 BLDS năm 2015 thì sẽ được sửa đổi lại như sau: “Điều 631:
- Phần nội dung của di chúc phải do người lập di chúc định đoạt.
Trong nội dung của di chúc thì phải ghi rõ về ngày, tháng, năm lập; họ, tên của người lập di chúc; họ, tên (hoặc yếu tố cá biệt khác) của cá nhân, tên của cơ quan, tổ chức được hưởng di sản. Ngoài ra, trong phần di chúc có thể có các nội dung khác phụ thuộc vào ý chí định đoạt của người lập di chúc…”
Thứ hai, sửa đổi lại khoản số 3 Điều 631 BLDS năm 2015 theo hướng như sau: cho phép viết tắt trong di chúc nhưng cần giải thích
Theo đó, khoản 3 Điều 631 BLDS năm 2015 sẽ được sửa đổi lại như sau: “3. Nội dung của di chúc có thể được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, thế nhưng phải được giải thích rõ ràng đối với từ viết tắt hoặc ký hiệu đầu tiên, trừ trường hợp những từ viết tắt hoặc ký hiệu thông dụng”. Nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang cần được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
-------------------------------------------------
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ:
Địa chỉ: Số 3, ngõ 115 Nguyễn Khang, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Website:https://sjklaw.vn/
Email: sjk.law@hotmail.com
Hotline: 0962420486