SỰ HÌNH THÀNH NGUYÊN TẮC HỘI THẨM THAM GIA XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DẤN SỰ
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hội thẩm tham gia xét xử.
Cách thức mà bồi thẩm đoàn tham gia xét xử lần đầu tiên được thấy trong Sắc lệnh số 33 / SL ngày 21-1-1945 và Sắc lệnh số 13 / SL ngày 21-1-1946. Ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 13 về cải tổ tổ chức Tòa án và Cơ quan Tư pháp, trong đó quy định rõ hơn về việc tham gia xét xử hình sự của Hội thẩm. Đồng thời, “trong các vấn đề dân sự và thương mại, là chánh án duy nhất”. Hội thẩm nhân dân thời kỳ này được gọi là trợ lý thẩm phán và không tham gia xét xử các vụ án dân sự.
Hiến pháp năm 1946 là bản hiến pháp của nước ta chính thức ghi nhận nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử: “Trong xét xử tội phạm, nếu là tội nhẹ thì Hội thẩm nhân dân phải phát biểu ý kiến, nếu là tội nhẹ thì phải quyết định.” cùng với thẩm phán. “Trọng tội”. Theo Sắc lệnh số 85 / SL ngày 22/5/2950 về cải cách tư pháp và luật tố tụng, Hội thẩm nhân dân được đổi tên thành Hội thẩm nhân dân, quyền tham gia xét xử của Hội thẩm. các trường hợp đã được mở rộng. Vì vậy, theo Sắc lệnh số 85 / SL, hội thẩm nhân dân khi xét xử các vụ án hình sự và dân sự đều có quyền biểu quyết như thẩm phán.
Cụ thể quy định trong Hiến pháp
Hiến pháp 1959 quy định “Tòa án nhân dân xét xử có Hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp luật, khi xét xử, Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán bình đẳng với nhau”. So với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 quy định cụ thể hơn về hệ thống hội thẩm nhân dân tham gia xét xử. Theo Hiến pháp 1959, “Luật Tổ chức Tòa án nhân dân” quy định: “Tòa án nhân dân gồm có Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân khi xét xử sơ thẩm …”.
Điều 130 Hiến pháp năm 1980 ghi nhận nguyên tắc này “Phiên tòa phải có hội thẩm nhân dân tham gia…”.Ngoài ra, còn quy định thêm nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao không quá hai năm rưỡi, nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án địa phương không quá hai năm. Trong Quy định về thủ tục hòa giải các vụ án dân sự năm 1989, nguyên tắc Hội thẩm tham gia xét xử vụ án dân sự chưa được xác lập như một nguyên tắc riêng.
Xem thêm: Quy tắc hội thẩm tham gia xét xử vụ án dân sự
Hiến pháp năm 1992 quy định “Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử theo quy định của pháp luật tại Tòa án nhân dân, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án quân sự”. Ngoài ra, còn quy định thêm nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao không quá hai năm rưỡi, nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án địa phương không quá hai năm.Hiến pháp năm 1992 quy định “Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử theo quy định của pháp luật tại Tòa án nhân dân, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án quân sự”.
Theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Luật cơ quan Tòa án nhân dân năm 1992 và Quy chế Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993, ban hành và tiếp tục ghi nhận các nguyên tắc của Hội thẩm, như: Hội thẩm khi xét xử thì được bình đẳng. Thẩm phán … Năm 2002, Quy chế Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mới được ban hành thay thế Quy chế năm 1993 quy định Hội thẩm nhân dân Việt Nam bao gồm Hội thẩm nhân dân ở Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án cấp huyện, thành phố trực thuộc Trung ương và Hội thẩm nhân dân Tòa án cấp cao.
Lưu ý:
Luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam. Cụ thể, Điều 11 Bộ luật Dân sự năm 2004 quy định Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định về việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử: “Trong các phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân, Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”.
Chế độ Hội thẩm tham gia phiên tòa được thực hiện Điều 8 “Luật Tổ chức Tòa án nhân dân” năm 2014 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm có Hội thẩm tham gia phiên tòa này được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng, nhưng các trường hợp được xử theo thủ tục tóm tắt ”. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2014, “Luật Tổ chức Tòa án nhân dân” năm 2014, “Luật Tố tụng dân sự” năm 2015, việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án dân sự được quy định tại Điều 11 “Điều 1”. Quy định của Luật này được áp dụng đối với vụ án dân sự sơ thẩm có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn. ”
————————————————-
Mọi thông tin yêu cầu tư vấn xin vui lòng liên hệ:
𝐂Ô𝐍𝐆 𝐓𝐘 𝐋𝐔Ậ𝐓 𝐓𝐍𝐇𝐇 𝐒𝐉𝐊𝐋𝐀𝐖
Địa chỉ: Số 3, ngõ 115 Nguyễn Khang, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Website:https://sjklaw.vn/
Email: sjk.law@hotmail.com
Hotline: 0962420486